Cách Chế Biến Món Ăn Từ Thịt Kỳ Đà / Top 10 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Morningstarinternationalschool.edu.vn

Những Món Ăn Bài Thuốc Quý Từ Thịt Kỳ Đà

Kỳ đà là một loại bò sát cỡ lớn sống hoang dã, theo Y học cổ truyền thì kỳ đà có tác dụng bổ hư, chữa chứng hơi thở cấp bách, chân yếu đứng không vững, chứng ghẻ lở do khí huyết ứ trệ…” Vài nét về loài kỳ đà :

Kỳ đà là một loại bò sát cỡ lớn sống hoang dã, tên khoa học kỳ đà Varanus salvator Laurenti. Chúng thường ăn ếch, nhái, cóc, lươn, cá, trứng, xác động vật, côn trùng…,

Theo sách Dược tính chỉ nam: “Đà nhục, vị ngọt, tính bình, hơi có độc, tác dụng bổ hư, chữa chứng hơi thở cấp bách, chân yếu đứng không vững, trưng hà, phụ nữ hay đau bụng dưới, chứng lở ghẻ do khí huyết ứ trệ, bệnh ác sang…”.

Một số món ăn bài thuốc được chế biến từ thịt kỳ đà :

Kỳ đà hầm sả gừng: xương thịt kỳ đà, củ cải trắng, cà rốt, nấm hương, gừng nướng, củ sả, nước gia vị vừa đủ hầm ăn. Trị các chứng gân cơ vô lực “nuy chứng”, ho thở đàm nhiều, chứng mụn nhọt lở ngứa, kinh không đều, các chứng huyết hư ứ trệ.

Thịt kỳ đà hầm lá ngải: kỳ đà chặt khúc 100g, lá ngải tươi 20g, đương quy 30g, xuyên khung 30g, gừng nướng 20g, gia vị vừa đủ hầm ăn. Dùng trị chứng phụ nữ thấp trệ khó thụ thai, có kinh đau bụng, chứng u xơ, phì đại tuyến tiền liệt “bệnh trưng hà báng tích”, các chứng khí huyết ứ trệ, đàm thấp.

Cháo kỳ đà đậu xanh: thịt xương kỳ đà tẩm hành, tiêu hầm nhừ, sau cho gạo, đậu xanh nấu cháo, khi ăn cho gừng, hành, ngò gia vị ăn. Theo giảng viên Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur Hà Nội, món ăn này dùng trị chứng hư nhược trẻ em còi, người lớn khó lên cân, gân cơ yếu, ho thở, da sần ngứa gãi, phù thũng.

Kỳ đà nấu cao: kỳ đà lấy thịt, xương tẩm gia vị, ngải cứu, lá xương sông, gừng nấu thành cao. Dùng cao kỳ đà ngâm rượu uống hoặc chưng hấp mật ong uống ngày 10g. Tác dụng bổ phế, ích thận khỏe gân xương, trừ thấp trệ, chuyên chữa các bệnh gân xương yếu đau mỏi, phụ nữ hiếm muộn, phế hư ho hen, các chứng đau nhức do huyết ứ, phong thấp.

Mỡ kỳ đà chữa bệnh ngoài da: dùng mỡ kỳ đà bôi ngày vài lần. Chữa các chứng ghẻ lở, mụn nhọt, nhọt dò lâu lành.

Mật kỳ đà pha mật ong chữa hen: 1 chiếc mật kỳ đà pha 300ml mật ong tốt uống trong 10 ngày. Tác dụng chữa hen suyễn do phế quản co thắt.

Mật kỳ đà trị rắn cắn: mật kỳ đà 5-7ml pha nước cốt chanh, mật ong các vị bằng nhau 7ml uống 2-3 lần/ngày.

Mật kỳ đà chữa kinh giản: mật kỳ đà 5ml pha 100ml nước cốt lá xương sông uống. Chữa trẻ em động kinh do can phong đờm trọc.

Lưu ý : dãi kỳ đà rất độc, khi chế biến làm thịt phải cẩn thận rửa sạch nhớt dãi.

Nguồn: Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur TPHCM

Cách Nấu Kỳ Đà – Cách Chế Biến Thịt Kỳ Đà Lạ Miệng Cực Thơm Ngon

Cách chế biến thịt Kỳ đà lạ miệng cực thơm ngon. Mật kỳ đà là một vị thuốc quý, hiếm, được lấy từ túi mật của con kỳ đà. Đó là một loài động vật sống hoang dã ở rừng núi. Tác dụng của mật kỳ đà và cách chế biến

Kỳ đà có 2 – 3 loại. Mật kỳ đà nào cũng dùng được, nhưng tốt và phổ biến hơn là mật kỳ đà mốc còn gọi còn gọi là kỳ đà vằn, kỳ đà nước.

Đang xem: Cách nấu kỳ đà

Kỳ đà mốc (Varanus salvator Laurenti) là loài bò sát cỡ lớn. Thân dài tới 2m kể cả đuôi, phủ vảy nhỏ, đầu nhỏ, mõm dài nhọn, cổ to, lưỡi chẻ đôi ở đầu như lưỡi rắn. Chân có móng sắc. Đuôi dài, dẹt và thuôn nhọn, xen kẽ những vòng vàng và đen. Sống lưng và sống đuôi nổi rõ. Da màu xám, xanh và vàng.

Người ta thường lấy túi mật ở những con kỳ đà lớn, buộc chặt miệng túi để nước mật khỏi chảy mất, treo ở chỗ thoáng gió, râm mát hoặc trên giàn bếp cho khô, rồi bảo quản trong hộp kín có vôi cục để hút ẩm.

Về thành phần hóa học, mật kỳ đà chứa acid mật, muối mật có cấu trúc steroid.

Theo y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, mật kỳ đà có vị hơi ngọt, cay, không độc và đặc biệt không đắng như mật của các động vật khác, có tác dụng thông kinh, thanh nhiệt, giải độc, chống co thắt và co giật. Dược liệu được dùng trong những trường hợp sau:

Chữa sài giật trẻ em: Lấy nửa bát nước đun sôi để nguội, hòa vào 5 – 7g mật kỳ đà. Lá găng trắng và lá tiết dê, mỗi thứ 20g để tươi, rửa sạch, vò lấy nước cốt. Trộn hai nước lại cho trẻ uống làm hai lần, đồng thời lấy bã lá đắp vào trán.

Chữa tắc kinh: Mật kỳ đà phối hợp với hạt chanh và hạt cau khô, mỗi thứ 7g, giã nhỏ, hòa với rượu, gạn uống trong ngày.

Chữa rắn cắn: Mật kỳ đà 7g, mật ong 7ml, dịch chanh 3ml, nước sôi để nguội 15ml. Trộn chung, khuấy đều, uống làm 2 lần trong ngày.

Chữa hen suyễn: Dùng một cái mật kỳ đà chia thành liều nhỏ, uống trong 7 – 10 ngày.

Người ta còn cho rằng mật kỳ đà có khả năng chữa được bệnh động kinh. Chưa thấy tài liệu nào kiểm chứng bằng thực nghiệm khoa học.

Các món ăn từ thịt Kỳ Đà

Kỳ đà là một loại bò sát, nhìn giống thằn lằn nhưng to và dài hơn nhiều, có thể dài đến 2,5-3m, nặng 10 kg. Nhưng con to như vậy hầu như không ai ăn cả, vì nó hiếm có con to như thế, hơn nữa thịt cũng rất dai

Kỳ đà con nào to hơn 5kg là thịt đã dai rồi. Ăn con tầm 3,5-4kg là vừa… Kỳ đà cũng có thể cắt tiết để pha vào rượu uống. Nói chung mấy vụ rượu tiết này mình không khoái lắm vì hơi tanh, dù nó có thể tốt. Khi nào đi đông anh em thì uống, chứ ít người thì thường bỏ.

Kỳ đà có thể làm được nhiều món nhưng ngon nhất vẫn là những món như xào lă, xào sả ớt, kỳ đà nướng hoặc kỳ đà nấu măng để ăn kèm với bún…

Kỳ đà là động vật hoang dã đang được thuần hóa, nhân nuôi, sức đề kháng cao, có khả năng thích ứng với điều kiện nuôi dưỡng, ít dịch bệnh, nên rất dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao. Kỳ đà có rất nhiều loài, có loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam.

Chúng thường sống trong những gốc cây, hốc đá, kẽ hở đất, đá, tường nhà… Kỳ đà trưởng thành có thể dài 2,5m, nặng 7 – 8kg và bắt đầu đẻ trứng. Trong tự nhiên, kỳ đà đẻ trứng mỗi năm một lứa, mỗi lứa 15 – 17 trứng và chỉ khoảng 35% trứng có khả năng nở con. Nếu chúng ta tổ chức ấp trứng nhân tạo đảm bảo yêu cầu kỹ thuật thì tỷ lệ ấp nở có thể cao hơn nhiều. Kỳ đà có thể lột xác (lột da) mỗi năm một lần vào khoảng tháng 8 đến tháng 10. Sau mỗi lần lột da, tốc độ tăng trưởng của kỳ đà có thể tăng gấp 2 – 3 lần.Chuồng nuôi kỳ đà có thể là chuồng lưới hay chuồng xi măng, dài 3m, rộng 2,5m, cao 2,5m, xung quanh tô láng để kỳ đà không bám tường leo ra ngoài. Trong chuồng có thể làm hang bê tông hoặc để sẵn một số ống cống phi 150 – 200cm, đảm bảo nhiệt độ thích hợp cho kỳ đà nghỉ ngơi và phòng tránh nắng nóng.

Thức ăn của kỳ đà là sâu bọ, côn trùng như cào cào, châu chấu, chuồn chuồn, cánh cam, nhện, mối, gián, ong, bướm, cóc nhái, gà vịt, chim cút, trứng gia cầm… hay thịt, lòng trâu, bò, heo, gà và tôm, cá, cua, ếch… Nuôi kỳ đà chỉ cần cho ăn những thức ăn rẻ tiền. Trong tự nhiên, kỳ đà là thành viên có ích cho con người tiêu diệt chuột, côn trùng và sâu bọ phá hoại mùa màng.

Kỳ đà trưởng thành, dài 2,5m, nặng 7 – 8kg, có thể bán với giá 400.000 đ/kg. Mật của kỳ đà có thể bán với giá 300.000 đ/cái. Về mặt dược liệu, mật và lưỡi của kỳ đà dùng để ngâm rượu hoặc sấy khô làm thuốc để chữa bệnh động kinh, hen suyễn, nhức mỏi, đau bụng, kiết lỵ… hiệu quả rất tốt. Da kỳ đà còn là nguyên liệu quý hiếm để làm đồ thủ công mỹ nghệ, đồ trang sức được nhiều người ưa chuộng. Nuôi kỳ đà không những không tốn thức ăn đắt tiền mà còn tiêu diệt được những côn trùng phá hoại mùa màng và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Có thể nói, việc thuần dưỡng và nhân nuôi loài bò sát hoang dã này rất đơn giản và hiệu quả kinh tế cao, ai cũng có thể làm được. Thịt, da, mật và lưỡi của kỳ đà là những sản phẩm quý hiếm. Thị trường tiêu thụ kỳ đà rất phong phú và đa dạng, hiện còn khan hiếm, không chỉ trước mắt mà còn lâu dài.Nuôi kỳ đà vân ở miền BắcMột con kỳ đà có thể nặng tới 7kg và giá trên thị trường là 400.000đ/1kg. Riêng 1 túi mật kỳ đà cũng có giá tới 300.000đ. Ngoài ra, bộ da kỳ đà còn là nguyên liệu quý để làm các đồ lưu niệm được nhiều người ưu thích. Loài bò sát có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên và có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (2000) này hiện nay đã được nhân nuôi thành công ở một số trang trại miền Bắc và đưa lại những nguồn thu nhập đổi đời bất ngờ.

Kỳ đà vân phát triển tốt trong điều kiện chuồng trại tại miền Bắc.

Kỳ đà có nhiều loài, hình dạng giống thằn lằn nhưng to hơn, dài hơn. Một con kỳ đà trưởng thành có thể dài tới 2,5m và nặng tới 7kg. Loài bò sát này vẫn được người dân quen gọi là thằn lằn rắn khổng lồ. Trong tự nhiên, kỳ đà là thành viên tiêu diệt sâu bọ, chuột phá hoại mùa màng. Tuy nhiên, do sức hấp dẫn của các món ăn chế biến từ thịt và trứng kỳ đà cũng như bộ da và đặc biệt là túi mật của nó mà số lượng kỳ đà ngoài tự nhiên hiện nay không còn nhiều vì bị con người săn bắt, khai thác mạnh. Bởi lẽ đó cả 2 loài kỳ đà ở nước ta đều đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (2000). Do vậy, cần thiết phải có biện pháp thuần dưỡng và nhân nuôi loài bò sát hoang dã này.

Từ năm 2001, một đề tài khoa học cấp nhà nước do chúng tôi Trần Kiên (ĐHSPHN) chủ trì đã tiến hành theo dõi các đặc điểm sinh thái, sinh học của loài kỳ đà vân (Varanus bengalensis) trong điều kiện nhân nuôi ở miền Bắc. Đây là một bước đi mang tính đột phá bởi chúng thuộc nhóm động vật biến nhiệt, hoạt động nhiều ở nhiệt độ môi trường từ 200C đến 400C nên chỉ phân bố tại các vùng phía nam (từ Quảng Trị tới Cà Mau).

Khi đưa loài này ra miền Bắc nhân nuôi thì trở ngại lớn nhất là làm sao giúp chúng vượt qua được mùa đông giá rét. Vì thế, khi thiết kế chuồng nuôi cần chọn vị trí phù hợp trong không gian xanh và sử dụng các biện pháp kỹ thuật hợp lý như rọi đèn điện, xây hang bằng bêtông để đảm bảo nhiệt độ sống thích hợp cho chúng. Ngoài ra, nuôi giống này cũng chẳng cần quá cầu kỳ, thức ăn chúng ưa thích là nhái, cóc, thịt lợn, trứng chim cút…

Trong các tháng trú đông (từ tháng 12 đến tháng 3), nhu cầu sử dụng thức ăn của chúng giảm hẳn. Kỳ đà vân lột xác một lần trong năm vào khoảng tháng 8 đến tháng 10. Sau mỗi lần lột xác tốc độ tăng trưởng của kỳ đà có thể gấp 2 – 3 lần. Trong tự nhiên, kỳ đà đẻ mỗi năm một lứa, mỗi lứa được khoảng 15 đến 17 trứng; tuy nhiên chỉ có khoảng 35% số trứng đó có khả năng nở. Tuy nhiên nếu chúng ta hỗ trợ việc ấp trứng nhân tạo trong điều kiện nhiệt độ thích hợp thì tỉ lệ này sẽ tăng cao hơn nhiều.

Có thể nói việc nhân nuôi và chăm sóc kỳ đà vân là khá đơn giản và ai cũng có thể làm được. ông Trần Thanh Tùng – một chủ hộ nuôi kỳ đà vân ở Hải Dương – tâm sự với chúng tôi rằng đây là một nghề một vốn nhiều lời và dễ làm. Trừ mọi chi phí, năm vừa rồi, gia đình ông cũng thu nhập được thêm cả trăm triệu đồng từ việc nuôi kỳ đà vân. Nhu cầu thị trường về loài kỳ đà vân này hiện nay rất cao. Người ta khai thác nhiều sản phẩm từ kỳ đà vân như mật, thịt, da…

– Tập tính sinh hoạt và môi trường sống: Môi trường sống của kỳ đà phong phú và đa dạng. Kỳ đà hoang dã có mặt ở hầu khắp các nước khí hậu nhiệt đới, nhất là những vùng rừng núi và thường sống trong những gốc cây, hốc đá, kẽ hở đất, đá… ban ngày thường ngủ, nghỉ, ban đêm đi kiếm ăn. Kỳ đà thích ẩn mình trong các hang hốc, thích ngâm mình, săn mồi nơi sông suối giống như cá sấu.

Thức ăn của kỳ đà là cóc nhái, gà vịt, tôm cá, thịt động vật loại nhỏ, trong chăn nuôi có thể dùng phụ phẩm để giảm chi phí.

– Sinh trưởng, phát triển và sinh sản: Kỳ đà sinh trưởng, phát triển mạnh sau mỗi lần lột xác (lột da). Sau mỗi lần lột da, nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt tốc độ tăng trưởng của kỳ đà có thể tăng lên 2 – 3 lần. Kỳ đà có thể lột da mỗi năm một lần vào khoảng tháng 8 đến tháng 10.

Kỳ đà trưởng thành sau 18 tháng tuổi có thể dài 2,5 m, nặng 7 – 8 kg và bắt đầu đẻ trứng. Trong tự nhiên,

Kỳ đà đẻ trứng mỗi năm một lứa, mỗi lứa 15 – 17 trứng và chỉ khoảng 35% trứng có khả năng nở con. Nếu chúng ta tổ chức ấp trứng nhân tạo đảm bảo yêu cầu kỹ thuật thì tỷ lệ ấp nở có thể đạt 80 – 90%.Chọn giống và thả giống:

Chọn giống: Chọn những con to khỏe có kích thước trung bình trở lên.

Cách nhận biết kỳ đà đực, kỳ đà cái bằng cách lật ngửa bụng con kỳ đà để quan sát gốc đuôi và lỗ huyệt:

– Kỳ đà đực: Gốc đuôi phồng to, lỗ huyệt lồi và có gờ, khi bóp vào gốc đuôi sẽ thấy gai giao cấu màu đỏ thẫm lòi ra ở lỗ huyệt.

– Kỳ đà cái: Đuôi thon nhỏ, lỗ huyệt nhỏ lép, khi bóp vào gốc đuôi không có gai giao cấu lòi ra.

Thả giống: Thả giống vào chuồng lưới hay chuồng xi-măng. Mỗi chuồng thả 1 con đực với 1 con cái hoặc 1 con đực với vài ba con cái.

Chuồng nuôi:

Chuồng nuôi kỳ đà cũng giống như chuồng nuôi cá sấu, có thể là chuồng lưới hay chuồng xi-măng, dài 3 – 4 m, rộng 2 – 3 m, cao 2 – 3 m, xung quanh tô láng để kỳ đà không bám tường leo ra ngoài. Trong chuồng, có thể làm hang bêtông hoặc để sẵn một số ống cống phi 0,1 – 0,2 m, dài trên 4 m, đảm bảo môi trường thích hợp cho kỳ đà ẩn trú, nghỉ ngơi và phòng tránh nắng nóng… có hệ thống thoát nước hợp lý khi rửa chuồng hay xịt nước tắm cho kỳ đà. Vốn đầu tư chuồng trại nuôi kỳ đà thấp hơn nuôi cá sấu. Nếu có điều kiện nên trồng cây hay đặt cây cảnh để tạo cảnh quan và để tránh nắng cho kỳ đà.

Thức ăn: Thức ăn của kỳ đà là sâu bọ, côn trùng như cào cào, châu chấu, chuồn chuồn, cánh cam, nhện, mối, gián, ong, bướm, cóc, ếch nhái, gà vịt, chim chóc hoặc có thể tập cho kỳ đà ăn mồi không cử động như trứng gia cầm, cua, tôm, cá hay thịt, lòng gia súc, gia cầm… Vào lúc chiều tối thả mồi côn trùng, sâu bọ hay chuột vào chuồng cho kỳ đà ăn. Mỗi con kỳ đà ăn khoảng 2 – 3 con chuột hay ếch nhái… là đủ bữa cho cả ngày. Tuy nhiên, trong chuồng nên đặt sẵn máng đựng thức ăn, nước uống cho kỳ đà ăn, uống tự do.

Trong tự nhiên, kỳ đà là thành viên có ích cho con người tiêu diệt chuột, côn trùng và sâu bọ phá hoại mùa màng. Nuôi kỳ đà không những không tốn thức ăn đắt tiền mà còn tiêu diệt được chuột, côn trùng, sâu bọ phá hoại mùa màng.

Chăm sóc nuôi dưỡng:

Chăm sóc nuôi dưỡng kỳ đà giống như nuôi cá sấu. Kỳ đà vừa là nguồn thực phẩm, vừa là nguồn dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, nhưng hiện nay, trong thiên nhiên loài bò sát này đang ngày càng cạn kiệt và có nguy cơ tuyệt chủng. Kỳ đà có rất nhiều loài, có loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam. Chính vì vậy, việc phát triển nghề nuôi kỳ đà tại hộ gia đình là cần thiết và góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Vốn đầu tư để chăn nuôi kỳ đà ít và hiệu quả kinh tế cao. Thịt kỳ đà ngon mà không gây cảm giác sợ như thịt cá sấu; mật và lưỡi kỳ đà còn là bài thuốc quý, da kỳ đà với lượng lớn cũng có thể xuất khẩu.

Hiện nay, một số hộ dân ở các tỉnh miền Đông Nam bộ đã bắt đầu nuôi kỳ đà và cho hiệu quả rất khả quan.

Phòng bệnh:

Kỳ đà là động vật hoang dã nên sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, kỳ đà cũng thường bị một số bệnh như:

– Chấn thương cơ học: Chấn thương nhỏ thì bôi thuốc sát trùng, chấn thương lớn phải khâu. Da kỳ đà có khả năng tái sinh nhanh nên chóng lành.

– Viêm cơ dưới da: Dưới lớp da nổi những mụn nước nhỏ bằng hạt ngô, hạt đậu, kỳ đà biếng ăn, không ăn rồi chết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp…

– Táo bón: Dùng thuốc tẩy dạng dầu bơm vào lỗ huyệt, có khi phải dùng ngón tay móc phân cục ra. Cho ăn thức ăn nhuận tràng…

– Tiêu chảy: Thường do khẩu phần thức ăn ta cung cấp không đảm bảo vệ sinh và giá trị dinh dưỡng nên kỳ đà có thể bị tiêu chảy. Ta có thể dùng thuốc điều trị tiêu chảy hoặc bổ sung thêm thức ăn, nước uống đắng… Để phòng bệnh tiêu chảy, không nên sử dụng các loại thức ăn bị ôi thiu, ẩm mốc…

– Ký sinh trùng đường ruột: Kỳ đà còi cọc, chậm lớn, trong phân có ấu trùng giun, sán. Cần thiết phải xổ sán lãi cho kỳ đà.

– Ký sinh trùng ngoài da: Ve (bét) bám trên da hút máu và truyền bệnh cho kỳ đà. Dùng thuốc sát trùng chuồng trại sạch sẽ…

Phòng bệnh tổng hợp là biện pháp phòng bệnh tốt nhất: Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, ăn uống sạch sẽ, thức ăn đảm bảo vệ sinh và giá trị dinh dưỡng, chuồng trại luôn sạch sẽ, không lầy lội, không nóng quá, lạnh quá…(ST)

Ăn Thịt Kỳ Đà Có Tác Dụng Gì ? Cách Nấu Thịt Kỳ Đà

Kỳ đà – Loại động vật sinh trưởng và sống trong môi trường hoang dã, với thành phần dinh dưỡng rất cao, nên ngày nay nhu cầu sử dụng loại thịt này ngày tăng. Và để đáp ứng cho vấn đề này, thì nhiều người đã tiến hành thuần hóa và nuôi nhốt thành công. Rất nhiều người cho rằng, thịt kỳ đà sẽ giúp cơ thể cường tráng, tinh lực dồi dào, cũng như phòng chống những căn bệnh khác. Vậy tác dụng cụ thể mà chúng đem lại ra sao, cùng theo dõi bài viết: Ăn thịt kỳ đà có tác dụng gì ? cách nấu thịt kỳ đà.

Hệ thống chữa cháy bằng bọt foam

Trước đây, kỳ đà là một loài vật sinh sống trong thiên nhiên hoang dã, nhưng với hàm lượng dinh dưỡng cực cao mà thịt của loài động vật này mang lại, thì người ta đã nghĩ cách thuần hóa và nuôi chúng tại nhà. Theo đánh giá của những người nuôi, thì kỳ đà là loại động vật có sức khỏe cực kỳ tốt, có khả năng thích ứng với điều kiện nuôi dưỡng, ít dịch bệnh, nên nó rất nhanh chóng thích nghi với môi trường nuôi nhốt, nên mang lại hệ quả kinh tế rất cao.

Kỳ đà là một trong những loài động vật thuộc loài bò sát, chúng có rất nhiều loại và đặc biệt một loại còn nằm trong danh sách đỏ cực kỳ quý hiếm của Việt Nam. Môi trường sinh sống chủ yếu của loài động vật này chính là những gốc cây, hốc đá, kẽ hở đất, đá, tường nhà…Trung bình, khi kỳ đà trường thành sẽ có trong lượng là 7 – 8kg và dài 2,5m, lúc này chính là độ tuổi sinh sản của kỳ đà. Thông thường, kỳ đà sẽ đẻ mỗi năm một lần trứng và có từ 15 – 17 trứng, tuy nhiên chỉ có khoảng 35% trứng có khả năng nở con.

Nếu áp dụng phương pháp ấp trứng nhân tạo, thì kết quả để trứng kỳ đà nở thành con rất lớn. Mỗi năm, loài vật này sẽ tiến hành chu kỳ lột xác một lần, vào thời gian là thàng 8 đến tháng 12, là mọt trong những lòa bò sát nên tập tính của chúng cũng giống tương tự như rắn. Sau khi thay da, kích thước của kỳ đà sẽ tăng trường một cách nhanh chóng, có thể đạt đến kích thước và trọng lượng lên gấp 2 – 3 lần.

Những nhà khoa học sau khi tiến hành nghiên cứu đã chứng minh được rằng, thịt kỳ đà cực kỳ tốt cho cơ thể của chúng ta, khi chúng chứa hàng loạt những nguyên tố cần thiết cho sức khỏe như: protein, lipit… Từ đó, giúp cơ thể trong việc tăng cường hệ thống miễn dịch, bổ sung và cung cấp những yếu tố cần thiết để cơ thể luôn tràn trè năng lực, sức khỏe dẻo dai. Ngoài thịt ra, thì những bộ phận khác của kỳ đà cũng có tác dụng rất lớn và hữu ích đối với con người và nhất là phần túi mật.

Bên cạnh thịt, thì một trong những cơ quan được coi là dược liệu có khả năng điều trị bệnh. chính là túi mật của kỳ đà. Theo đông ý, mật kỳ đà có vị ngọt hơi cay, tính lành và đặc biệt là không có vị đắng như nhưng loại mật của các động vật khác, nên được sử dụng cho việc điều trị những trường hợp như: thông kinh, thanh nhiệt, giải độc, chống co thắt và co giật.

Những bài thuốc từ mật kỳ đà

Chữa sài giật trẻ em:

Bạn chỉ cần lấy ½ bát nước đun sôi để nguội, hòa vào 5 – 7g mật kỳ đà.

Tiếp đó lấy lá găng trắng và lá tiết dê mỗi thứ 20g để tươi,rửa sạch và vò lấy nước cốt.

Cuối cùng, bạn đen trộn hai dung dịch trên với nhau thật đều và cho trẻ nhỏ dung 2 lần/ngày, cùng đó nên kết hợp với việc lấy bã lá đắp vào trán.

Chữa tắc kinh

Mật kỳ đà phối hợp với hạt chanh và hạt cau khô, mỗi thứ 7g, giã nhỏ, hòa với rượu, gạn uống trong ngày.

Chữa rắn cắn

Dùng 7gr mật kỳ đà, mật ong 7ml, dịch chanh 3ml, nước sôi để nguội 15ml.

Trộn tất cả những nguyên liệu đã chuẩn bị với nhau và để uống hằng ngày, chia thành 2 lần và uống trong ngày.

Chữa hen suyễn

Bạn chỉ cần lấy 1 túi mật kỳ đà và tiến hành chia thành liều nhỏ, uống trong 7 – 10 ngày.

Cách nấu thịt kỳ đà

Là loài động vật bò sát và có vẻ ngoài tương tự những cú thằn lằn, kỳ đà khi trưởng thành cơ thể của chúng sẽ đến mức 2,5-3m, nặng 10 kg. Tuy nhiên, nếu bạn chọn những phải thịt của loại kỳ đà này, thì chắc chắc sẽ không cảm được mùi vị ngon lành của thịt kỳ đà, bởi nó rất dai. Vì vậy, khi lựa chọn bạn cần phải lựa chọn kỹ càng.

Bởi đặc tính của thịt kỳ đà là rất dai, nên quá trình chế biến loại thịt này cũng khà kỳ công. Những món ăn được chế biến với thịt kỳ đà phổ biến nhất có tểh kể đến như: xào lăn, xào sả ớt, kỳ đà nướng hoặc kỳ đà nấu măng để ăn kèm với bún…

Nếu bạn muốn chế biến thịt kỳ đà theo hình thức chiên và nướng, thì không cần phải lột da kỳ đà. còn những cách chế biến khách như: xào, om,kho, ram muối thì bạn hãy nhớ lột da của kỳ đà trước khi chế biến.

Chắc chắn rằng, sau khi tham khảo những thông tin của bài viết trên đay, bạn đã có thể cho mình những kiến thức bổ ích về loại thịt này, cùng như tìm được câu trả lời cho vấn đề: Ăn thịt kỳ đà có tác dụng gì ? cách nấu thịt kỳ đà

Cách Chế Biến Thịt Kỳ Đà Lạ Miệng Cực Thơm Ngon

Kỳ đà có 2 – 3 loại. Mật kỳ đà nào cũng dùng được, nhưng tốt và phổ biến hơn là mật kỳ đà mốc còn gọi còn gọi là kỳ đà vằn, kỳ đà nước.

Kỳ đà mốc (Varanus salvator Laurenti) là loài bò sát cỡ lớn. Thân dài tới 2m kể cả đuôi, phủ vảy nhỏ, đầu nhỏ, mõm dài nhọn, cổ to, lưỡi chẻ đôi ở đầu như lưỡi rắn. Chân có móng sắc. Đuôi dài, dẹt và thuôn nhọn, xen kẽ những vòng vàng và đen. Sống lưng và sống đuôi nổi rõ. Da màu xám, xanh và vàng.

Người ta thường lấy túi mật ở những con kỳ đà lớn, buộc chặt miệng túi để nước mật khỏi chảy mất, treo ở chỗ thoáng gió, râm mát hoặc trên giàn bếp cho khô, rồi bảo quản trong hộp kín có vôi cục để hút ẩm.

Về thành phần hóa học, mật kỳ đà chứa acid mật, muối mật có cấu trúc steroid.

Theo y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, mật kỳ đà có vị hơi ngọt, cay, không độc và đặc biệt không đắng như mật của các động vật khác, có tác dụng thông kinh, thanh nhiệt, giải độc, chống co thắt và co giật. Dược liệu được dùng trong những trường hợp sau:

Chữa sài giật trẻ em: Lấy nửa bát nước đun sôi để nguội, hòa vào 5 – 7g mật kỳ đà. Lá găng trắng và lá tiết dê, mỗi thứ 20g để tươi, rửa sạch, vò lấy nước cốt. Trộn hai nước lại cho trẻ uống làm hai lần, đồng thời lấy bã lá đắp vào trán.

Chữa tắc kinh: Mật kỳ đà phối hợp với hạt chanh và hạt cau khô, mỗi thứ 7g, giã nhỏ, hòa với rượu, gạn uống trong ngày.

Chữa rắn cắn: Mật kỳ đà 7g, mật ong 7ml, dịch chanh 3ml, nước sôi để nguội 15ml. Trộn chung, khuấy đều, uống làm 2 lần trong ngày.

Chữa hen suyễn: Dùng một cái mật kỳ đà chia thành liều nhỏ, uống trong 7 – 10 ngày.

Người ta còn cho rằng mật kỳ đà có khả năng chữa được bệnh động kinh. Chưa thấy tài liệu nào kiểm chứng bằng thực nghiệm khoa học.

Kỳ đà là động vật hoang dã đang được thuần hóa, nhân nuôi, sức đề kháng cao, có khả năng thích ứng với điều kiện nuôi dưỡng, ít dịch bệnh, nên rất dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao. Kỳ đà có rất nhiều loài, có loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam.

Chúng thường sống trong những gốc cây, hốc đá, kẽ hở đất, đá, tường nhà… Kỳ đà trưởng thành có thể dài 2,5m, nặng 7 – 8kg và bắt đầu đẻ trứng. Trong tự nhiên, kỳ đà đẻ trứng mỗi năm một lứa, mỗi lứa 15 – 17 trứng và chỉ khoảng 35% trứng có khả năng nở con. Nếu chúng ta tổ chức ấp trứng nhân tạo đảm bảo yêu cầu kỹ thuật thì tỷ lệ ấp nở có thể cao hơn nhiều. Kỳ đà có thể lột xác (lột da) mỗi năm một lần vào khoảng tháng 8 đến tháng 10. Sau mỗi lần lột da, tốc độ tăng trưởng của kỳ đà có thể tăng gấp 2 – 3 lần.

Chuồng nuôi kỳ đà có thể là chuồng lưới hay chuồng xi măng, dài 3m, rộng 2,5m, cao 2,5m, xung quanh tô láng để kỳ đà không bám tường leo ra ngoài. Trong chuồng có thể làm hang bê tông hoặc để sẵn một số ống cống phi 150 – 200cm, đảm bảo nhiệt độ thích hợp cho kỳ đà nghỉ ngơi và phòng tránh nắng nóng.

Thức ăn của kỳ đà là sâu bọ, côn trùng như cào cào, châu chấu, chuồn chuồn, cánh cam, nhện, mối, gián, ong, bướm, cóc nhái, gà vịt, chim cút, trứng gia cầm… hay thịt, lòng trâu, bò, heo, gà và tôm, cá, cua, ếch… Nuôi kỳ đà chỉ cần cho ăn những thức ăn rẻ tiền. Trong tự nhiên, kỳ đà là thành viên có ích cho con người tiêu diệt chuột, côn trùng và sâu bọ phá hoại mùa màng.

Kỳ đà trưởng thành, dài 2,5m, nặng 7 – 8kg, có thể bán với giá 400.000 đ/kg. Mật của kỳ đà có thể bán với giá 300.000 đ/cái. Về mặt dược liệu, mật và lưỡi của kỳ đà dùng để ngâm rượu hoặc sấy khô làm thuốc để chữa bệnh động kinh, hen suyễn, nhức mỏi, đau bụng, kiết lỵ… hiệu quả rất tốt. Da kỳ đà còn là nguyên liệu quý hiếm để làm đồ thủ công mỹ nghệ, đồ trang sức được nhiều người ưa chuộng. Nuôi kỳ đà không những không tốn thức ăn đắt tiền mà còn tiêu diệt được những côn trùng phá hoại mùa màng và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Có thể nói, việc thuần dưỡng và nhân nuôi loài bò sát hoang dã này rất đơn giản và hiệu quả kinh tế cao, ai cũng có thể làm được. Thịt, da, mật và lưỡi của kỳ đà là những sản phẩm quý hiếm. Thị trường tiêu thụ kỳ đà rất phong phú và đa dạng, hiện còn khan hiếm, không chỉ trước mắt mà còn lâu dài.

Nuôi kỳ đà vân ở miền Bắc

Một con kỳ đà có thể nặng tới 7kg và giá trên thị trường là 400.000đ/1kg. Riêng 1 túi mật kỳ đà cũng có giá tới 300.000đ. Ngoài ra, bộ da kỳ đà còn là nguyên liệu quý để làm các đồ lưu niệm được nhiều người ưu thích. Loài bò sát có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên và có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (2000) này hiện nay đã được nhân nuôi thành công ở một số trang trại miền Bắc và đưa lại những nguồn thu nhập đổi đời bất ngờ.

Kỳ đà vân phát triển tốt trong điều kiện chuồng trại tại miền Bắc.

Kỳ đà có nhiều loài, hình dạng giống thằn lằn nhưng to hơn, dài hơn. Một con kỳ đà trưởng thành có thể dài tới 2,5m và nặng tới 7kg. Loài bò sát này vẫn được người dân quen gọi là thằn lằn rắn khổng lồ. Trong tự nhiên, kỳ đà là thành viên tiêu diệt sâu bọ, chuột phá hoại mùa màng. Tuy nhiên, do sức hấp dẫn của các món ăn chế biến từ thịt và trứng kỳ đà cũng như bộ da và đặc biệt là túi mật của nó mà số lượng kỳ đà ngoài tự nhiên hiện nay không còn nhiều vì bị con người săn bắt, khai thác mạnh. Bởi lẽ đó cả 2 loài kỳ đà ở nước ta đều đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (2000). Do vậy, cần thiết phải có biện pháp thuần dưỡng và nhân nuôi loài bò sát hoang dã này.

Từ năm 2001, một đề tài khoa học cấp nhà nước do GS.TSKH Trần Kiên (ĐHSPHN) chủ trì đã tiến hành theo dõi các đặc điểm sinh thái, sinh học của loài kỳ đà vân (Varanus bengalensis) trong điều kiện nhân nuôi ở miền Bắc. Đây là một bước đi mang tính đột phá bởi chúng thuộc nhóm động vật biến nhiệt, hoạt động nhiều ở nhiệt độ môi trường từ 200C đến 400C nên chỉ phân bố tại các vùng phía nam (từ Quảng Trị tới Cà Mau).

Khi đưa loài này ra miền Bắc nhân nuôi thì trở ngại lớn nhất là làm sao giúp chúng vượt qua được mùa đông giá rét. Vì thế, khi thiết kế chuồng nuôi cần chọn vị trí phù hợp trong không gian xanh và sử dụng các biện pháp kỹ thuật hợp lý như rọi đèn điện, xây hang bằng bêtông để đảm bảo nhiệt độ sống thích hợp cho chúng. Ngoài ra, nuôi giống này cũng chẳng cần quá cầu kỳ, thức ăn chúng ưa thích là nhái, cóc, thịt lợn, trứng chim cút…

Trong các tháng trú đông (từ tháng 12 đến tháng 3), nhu cầu sử dụng thức ăn của chúng giảm hẳn. Kỳ đà vân lột xác một lần trong năm vào khoảng tháng 8 đến tháng 10. Sau mỗi lần lột xác tốc độ tăng trưởng của kỳ đà có thể gấp 2 – 3 lần. Trong tự nhiên, kỳ đà đẻ mỗi năm một lứa, mỗi lứa được khoảng 15 đến 17 trứng; tuy nhiên chỉ có khoảng 35% số trứng đó có khả năng nở. Tuy nhiên nếu chúng ta hỗ trợ việc ấp trứng nhân tạo trong điều kiện nhiệt độ thích hợp thì tỉ lệ này sẽ tăng cao hơn nhiều.

Có thể nói việc nhân nuôi và chăm sóc kỳ đà vân là khá đơn giản và ai cũng có thể làm được. ông Trần Thanh Tùng – một chủ hộ nuôi kỳ đà vân ở Hải Dương – tâm sự với chúng tôi rằng đây là một nghề một vốn nhiều lời và dễ làm. Trừ mọi chi phí, năm vừa rồi, gia đình ông cũng thu nhập được thêm cả trăm triệu đồng từ việc nuôi kỳ đà vân. Nhu cầu thị trường về loài kỳ đà vân này hiện nay rất cao. Người ta khai thác nhiều sản phẩm từ kỳ đà vân như mật, thịt, da…

Về mặt dược liệu, mật kỳ đà ngâm rượu hoặc sấy khô làm thuốc để chữa nhiều bệnh như bệnh động kinh, hen, nhức mỏi xương cốt, kiết lỵ… Việc nhân nuôi thành công loài kỳ đà vân ở miền Bắc sẽ góp phần bảo tồn nguồn gen động vật quý và tạo cơ hội thay đổi cơ cấu vật nuôi nâng cao đời sống cho nhân dân.

ThS Nguyễn Lân Hùng Sơn – GĐ Bảo tàng Sinh vật – ĐH Sư phạm Hà Nội (LĐ, 19/9/2004)

Kỹ thuật nuôi kỳ đà

Đặc điểm giống: – Vóc dáng: Kỳ đà thuộc lớp động vật bò sát, hình dáng bên ngoài trông giống như con thạch sùng (thằn lằn) nhưng to và dài hơn, có thể dài đến 2,5 – 3 m, nặng khoảng 10 kg. Đầu hình tam giác nhọn về phía mõm. Mắt có con ngươi thẳng đứng. Có hai chân trước và hai chân sau, mỗi chân có 5 ngón tòe rộng, mặt dưới ngón có các nút bám để con vật dễ leo trèo. Màu sắc của con vật thay đổi theo màu sắc của môi trường sống để ngụy trang và săn bắt mồi.

– Tập tính sinh hoạt và môi trường sống: Môi trường sống của kỳ đà phong phú và đa dạng. Kỳ đà hoang dã có mặt ở hầu khắp các nước khí hậu nhiệt đới, nhất là những vùng rừng núi và thường sống trong những gốc cây, hốc đá, kẽ hở đất, đá… ban ngày thường ngủ, nghỉ, ban đêm đi kiếm ăn. Kỳ đà thích ẩn mình trong các hang hốc, thích ngâm mình, săn mồi nơi sông suối giống như cá sấu.

Thức ăn của kỳ đà là cóc nhái, gà vịt, tôm cá, thịt động vật loại nhỏ, trong chăn nuôi có thể dùng phụ phẩm để giảm chi phí.

– Sinh trưởng, phát triển và sinh sản: Kỳ đà sinh trưởng, phát triển mạnh sau mỗi lần lột xác (lột da). Sau mỗi lần lột da, nếu chăm sóc nuôi dưỡng tốt tốc độ tăng trưởng của kỳ đà có thể tăng lên 2 – 3 lần. Kỳ đà có thể lột da mỗi năm một lần vào khoảng tháng 8 đến tháng 10.

Kỳ đà trưởng thành sau 18 tháng tuổi có thể dài 2,5 m, nặng 7 – 8 kg và bắt đầu đẻ trứng. Trong tự nhiên,

Kỳ đà đẻ trứng mỗi năm một lứa, mỗi lứa 15 – 17 trứng và chỉ khoảng 35% trứng có khả năng nở con. Nếu chúng ta tổ chức ấp trứng nhân tạo đảm bảo yêu cầu kỹ thuật thì tỷ lệ ấp nở có thể đạt 80 – 90%.

Chọn giống và thả giống:

Chọn giống: Chọn những con to khỏe có kích thước trung bình trở lên.

Cách nhận biết kỳ đà đực, kỳ đà cái bằng cách lật ngửa bụng con kỳ đà để quan sát gốc đuôi và lỗ huyệt:

– Kỳ đà đực: Gốc đuôi phồng to, lỗ huyệt lồi và có gờ, khi bóp vào gốc đuôi sẽ thấy gai giao cấu màu đỏ thẫm lòi ra ở lỗ huyệt.

– Kỳ đà cái: Đuôi thon nhỏ, lỗ huyệt nhỏ lép, khi bóp vào gốc đuôi không có gai giao cấu lòi ra.

Thả giống: Thả giống vào chuồng lưới hay chuồng xi-măng. Mỗi chuồng thả 1 con đực với 1 con cái hoặc 1 con đực với vài ba con cái.

Chuồng nuôi:

Chuồng nuôi kỳ đà cũng giống như chuồng nuôi cá sấu, có thể là chuồng lưới hay chuồng xi-măng, dài 3 – 4 m, rộng 2 – 3 m, cao 2 – 3 m, xung quanh tô láng để kỳ đà không bám tường leo ra ngoài. Trong chuồng, có thể làm hang bêtông hoặc để sẵn một số ống cống phi 0,1 – 0,2 m, dài trên 4 m, đảm bảo môi trường thích hợp cho kỳ đà ẩn trú, nghỉ ngơi và phòng tránh nắng nóng… có hệ thống thoát nước hợp lý khi rửa chuồng hay xịt nước tắm cho kỳ đà. Vốn đầu tư chuồng trại nuôi kỳ đà thấp hơn nuôi cá sấu. Nếu có điều kiện nên trồng cây hay đặt cây cảnh để tạo cảnh quan và để tránh nắng cho kỳ đà.

Thức ăn: Thức ăn của kỳ đà là sâu bọ, côn trùng như cào cào, châu chấu, chuồn chuồn, cánh cam, nhện, mối, gián, ong, bướm, cóc, ếch nhái, gà vịt, chim chóc hoặc có thể tập cho kỳ đà ăn mồi không cử động như trứng gia cầm, cua, tôm, cá hay thịt, lòng gia súc, gia cầm… Vào lúc chiều tối thả mồi côn trùng, sâu bọ hay chuột vào chuồng cho kỳ đà ăn. Mỗi con kỳ đà ăn khoảng 2 – 3 con chuột hay ếch nhái… là đủ bữa cho cả ngày. Tuy nhiên, trong chuồng nên đặt sẵn máng đựng thức ăn, nước uống cho kỳ đà ăn, uống tự do.

Trong tự nhiên, kỳ đà là thành viên có ích cho con người tiêu diệt chuột, côn trùng và sâu bọ phá hoại mùa màng. Nuôi kỳ đà không những không tốn thức ăn đắt tiền mà còn tiêu diệt được chuột, côn trùng, sâu bọ phá hoại mùa màng.

Chăm sóc nuôi dưỡng:

Chăm sóc nuôi dưỡng kỳ đà giống như nuôi cá sấu. Kỳ đà vừa là nguồn thực phẩm, vừa là nguồn dược liệu quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, nhưng hiện nay, trong thiên nhiên loài bò sát này đang ngày càng cạn kiệt và có nguy cơ tuyệt chủng. Kỳ đà có rất nhiều loài, có loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam. Chính vì vậy, việc phát triển nghề nuôi kỳ đà tại hộ gia đình là cần thiết và góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Vốn đầu tư để chăn nuôi kỳ đà ít và hiệu quả kinh tế cao. Thịt kỳ đà ngon mà không gây cảm giác sợ như thịt cá sấu; mật và lưỡi kỳ đà còn là bài thuốc quý, da kỳ đà với lượng lớn cũng có thể xuất khẩu.

Hiện nay, một số hộ dân ở các tỉnh miền Đông Nam bộ đã bắt đầu nuôi kỳ đà và cho hiệu quả rất khả quan.

Kỳ đà là động vật hoang dã nên sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, kỳ đà cũng thường bị một số bệnh như:

– Chấn thương cơ học: Chấn thương nhỏ thì bôi thuốc sát trùng, chấn thương lớn phải khâu. Da kỳ đà có khả năng tái sinh nhanh nên chóng lành.

– Viêm cơ dưới da: Dưới lớp da nổi những mụn nước nhỏ bằng hạt ngô, hạt đậu, kỳ đà biếng ăn, không ăn rồi chết. Dùng thuốc tím rửa chỗ sưng tấy và chích kháng sinh tổng hợp…

– Táo bón: Dùng thuốc tẩy dạng dầu bơm vào lỗ huyệt, có khi phải dùng ngón tay móc phân cục ra. Cho ăn thức ăn nhuận tràng…

– Tiêu chảy: Thường do khẩu phần thức ăn ta cung cấp không đảm bảo vệ sinh và giá trị dinh dưỡng nên kỳ đà có thể bị tiêu chảy. Ta có thể dùng thuốc điều trị tiêu chảy hoặc bổ sung thêm thức ăn, nước uống đắng… Để phòng bệnh tiêu chảy, không nên sử dụng các loại thức ăn bị ôi thiu, ẩm mốc…

– Ký sinh trùng đường ruột: Kỳ đà còi cọc, chậm lớn, trong phân có ấu trùng giun, sán. Cần thiết phải xổ sán lãi cho kỳ đà.

– Ký sinh trùng ngoài da: Ve (bét) bám trên da hút máu và truyền bệnh cho kỳ đà. Dùng thuốc sát trùng chuồng trại sạch sẽ…

Phòng bệnh tổng hợp là biện pháp phòng bệnh tốt nhất: Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, ăn uống sạch sẽ, thức ăn đảm bảo vệ sinh và giá trị dinh dưỡng, chuồng trại luôn sạch sẽ, không lầy lội, không nóng quá, lạnh quá…

(ST)

Món Ăn Chế Biến Từ Thịt Lợn

Thịt lợn xào ngô bao tử Nguyên liệu

Thịt lợn nạc: 200g

Ngô bao tử: 200g

Cải bẹ trắng: 200g,hành khô: 1 củ.

Nước mắm, bột nêm và dầu ăn vừa đủ.

Cách làm:

Thịt lợn thái miếngmỏng, ướp thịt với chút nước mắm, bột nêm và hành khô bóc vỏ, thái lát.Ngô bao tử nhặt rửa sạch, búp to chẻ đôi theo chiều dọc, chần ngô quanước sôi, để ráo. Rau cải bẹ rửa sạch từng lá.

Cho chút dầu ăn vàochảo, phi thơm hành, đổ thịt vào xào chín tới, xúc để riêng. Cho tiếpdầu ăn vào chảo, cho ngô bao tử vào xào trước, sau đó cho rau cải vàoxào, nêm bột nêm vừa ăn. Cuối cùng là trút thịt vào đảo đều cho cácnguyên liệu ngấm vào nhau. Tắt bếp, bày thức ăn ra đĩa.

Thịt lợn kho trứng Nguyên liệu

Thịt chân giò: 500g

Trứng gà: 5 quả

Nước dừa: 500ml

Hành khô: 2 củ, tỏi khô: 1 củ.

Đường, nước mắm, muối, hạt nêm và nước màu vừa đủ.

Cách làm:

Thịt lợn làm sạch, tháimiếng to, ướp thịt với tỏi, hành khô băm nhỏ, đường muối và bột nêmtrong 30 phút cho thịt ngấm gia vị. Trứng gà luộc chín, bóc bỏ vỏ.

Cho nước dừa vào nồi,pha thêm một ít nước rồi đun sôi, sau đó cho nước mắm vào cùng với nướcdừa, đun sôi, đổ thịt vào, đậy vung đun nhỏ lửa trong khoảng hơn 1 giờthì thả trứng vào. Rưới nước màu lên thịt và trứng, đun thêm chừng 30phút, nêm thêm gia vị vừa ăn. Tắt bếp.

Thịt lợn sốt cam Nguyên liệu

Thịt lợn: 350g

Hành tây: nửa củ, cam chín: 1 quả, nước cam nguyên chất: 1 chén con, rau cải xanh: 150g, rau thơm: 1mớ, hành khô: 1 củ.

Nước mắm bột nêm, đường và dầu ăn.

Cách làm:

Thịt lợn thái miếng nhỏ,ướp thịt với hành băm nhỏ. Hành tây thái dọc nhỏ. Cam gọt vỏ, bổ múi.Rau thơm nhặt rửa sạch, vẩy ráo, bày ra đĩa. Rau cải xanh nhặt rửa sạch.

Cho dầu ăn vào đun nóng,cho rau cải vào xào trước sau đó cho hành tây vào xào, nêm vừa gia vị,xúc để riêng. Cho dầu ăn vào chảo phi thơm hành, đổ thịt vào xào chín,nêm vừa gia vị, cho nước cam đảo đều một lúc sau đó cho tiếp rau cải,hành tây vào cùng đảo đều. Tắt bếp, trút thức ăn lên đĩa bày rau thơm,sau đó bày những múi cam quanh đĩa.

Thịt xào giá, ớt Nguyên liệu

Thịt lợn: 250g

Giá đỗ: 150g, ớt chuông đỏ: 1 quả, hành lá: 50g, hành khô: 1củ.

Nước mắm, bột nêm và dầu ăn.

Cách làm:

Thịt lợn thái miếng nhỏvừa ăn, ướp thịt với nước mắm, hành khô băm nhỏ. Giá đỗ rửa sạch; ớtchuông đỏ bỏ cuống, bổ dọc, bỏ hạt, thái sợi, hành lá nhặt rửa sạch,cắt đoạn dài.

Cho dầu ăn vào chảo đunnóng, phim thơm hành, đổ thịt vào xào chín, xúc để riêng. Cho dầu ănvào chảo, cho ớt chuông đỏ vào đảo trước, sau đó cho giá vào đảo nhanhtay và trút thịt vào cùng, đảo nhanh. Cho hành lá vào, nêm thêm gia vịvừa ăn.